==HOTLINESHOW==  ==HOTLINESHOWOTHER==

Tỉnh Vologda là một đơn vị hành chính của Liên bang Nga, được thành lập ngày 23 tháng 9 năm 1937. Tỉnh này nằm ở phần tây bắc thuộc khu vực châu Âu của nước Nga. Diện tích lãnh thổ 145.700 km², dân số khoảng 1.269 triệu người (năm 2002). Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Vologda (292.800 người năm 2002). Tỉnh này là một phần của Vùng liên bang tây bắc.

Đảo Sakhalin Đảo Sakhalin

Tỉnh này có ranh giới về phía bắc với tỉnh Arkhangel, về phía đông với tỉnh Kirov, về phía nam với các tỉnh Kostroma và Yaroslavl, về phía tây nam với các tỉnh Tver và Novgorod, về phía tây với tỉnh Leningrad, về phía tây bắc với nước cộng hòa Karelia.

hành trình Nga - Tỉnh Vologda nằm ở phần đông bắc của đồng bằng đông châu Âu, địa hình ở đây có nhiều gò đồi — kế tiếp với các vùng đất thấp (Prionestkaia, Mologo-Sheksninskaia), các dãy (Andogskaia, Belozerskaia, Kirillovskaia) là các vùng đất cao (Andomskaia, Vepsovskaia, Vologodskaia, Galichskaia, Verkhnevatskaia). Ở phần phía đông của tỉnh là Severnưie Uvalư. Tỉnh này không giàu tài nguyên khoáng sản — có vài mỏ than bùn, vật liệu xây dựng và nước khoáng. Khí hậu mang đặc trưng của khí hậu lục địa vừa phải với mùa đông lạnh (nhiệt độ trung bình trong tháng 1 là −14 °C) và mùa hè mát mẻ (nhiệt độ trung bình tháng 7 là 18 °C). Lượng mưa tương đối nhiều — 500 mm/năm, sự bay hơi nhỏ hơn nhiều nên tỉnh này có nhiều sông, hồ và đầm lầy.

Tỉnh Vologda, du lich nga

Có nhiều sông lớn chảy qua tỉnh này như: sông Sukhona với các sông nhánh là sông Vologda và sông Dvinisa, sông Iug với sông Luza, sông Mologa với sông Tragodosha, sông Sheksna, thượng nguồn sông Unja, Andoma. Hồ chứa nước lớn Rưbin nằm ở phía tây nam, ở phía tây là các hồ: hồ Trắng, hồ Kuben và Voje. Hồ Onez ở phía bắc tỉnh này nối với sông Volga tạo thành tuyến đường thủy Volga-Ban Tích. Thực vật chủ yếu là các loài đặc trưng cho các vùng miền nam và trung tâm của rừng taiga. Rừng chiếm khoảng 2/3 lãnh thổ của tỉnh, chủ yếu là thông. Đất đai chủ yếu là podzol và dernovo-podzol, một sỗ chỗ là đất đầm lầy. Thế giới động vật chủ yếu là các loài của rừng taiga: nai, gấu nâu, thỏ trắng, chồn rừng, lửng, sói, cáo; chim — gà gô xám, gà lôi, gà thông (đa đa). Trong các sông và hồ có cá hồi, cá vền, cá vược, cá rô, cá măng v.v. Các khu bảo tồn quốc gia có Bắc Nga và khu bảo tồn Darwin.

Với mật độ dân số trung bình 8,7 người/km² nhưng tại các huyện ở phía bắc và đông tỉnh này thì mật độ này không quá 4 người/km², ngang bằng với chỉ số của Siberi. Chỉ ở các hạt nhân đô thị hóa nhiều hơn (các huyện ven đô như Cherepovetskii hay Vologodskii và các huyện cạnh đó như Sheksninskii, Grjazovetskii và Sokolskii) thì mật độ dân số dày hơn (từ 10 tới 70 người/km²).

Tỉnh trưởng của tỉnh và các cơ quan quản lý được ông lập ra tạo thành hệ thống cơ quan hành pháp của tỉnh. Tỉnh trưởng cũng là đại diện của tỉnh trong quan hệ với các cơ quan liên bang của Nga và với các tổ chức, cơ quan nhà nước của các chủ thể liên bang khác (tỉnh, nước cộng hòa tự trị v.v). Từ năm 1996, tỉnh trưởng là ông Pozgalev Viacheslav Evgenjievich). Đại diện hiện hành và là cơ quan lập pháp của tỉnh là Hội đồng lập pháp (HĐLP). Hội đồng này có 34 đại biểu. Các công việc của Hội đồng lập pháp được Chủ tịch HĐLP lãnh đạo, người này được các đại biểu bầu ra bằng bỏ phiếu kín. Trên lãnh thổ của tỉnh có 28 đơn vị thị chính. Đó là các thành phố Vologda và Cherepovets và 26 huyện. Tỉnh này có 8.108 điểm dân cư, 384 hội đồng xã. Những người đứng đầu của các cơ quan thị chính được bầu ra là đại diện của chính quyền tỉnh trong việc tự quản của các huyện.

Tỉnh Vologda, du lịch nga

hành trình

Một loạt các thành phố và điểm dân cư của tỉnh này như Belozersk, Velikii Ustjug, Vologda, Ustjuzha, Totjma v.v. là những thành phố lịch sử của Nga và là các viện bảo tàng ngoài trời. Vilikii Ustjug từ năm 1999 được công nhận là quê hương của ông già Nô-en của Nga.

Các viện bảo tàng chính: viện bảo tàng kiến trúc-lịch sử và viện bảo tàng nghệ thuật, các khu bảo tồn Vologodskii, Kirillo-Belozerskii, Veliko-Ustjugskii; các tổ hợp viện bảo tàng Totemskoe và Cherepovetskoe. Tại Semenkovo gần Vologda còn có viện bảo tàng dân tộc-kiến trúc.

Sự quan tâm đặc biệt là các công trình kiến trúc văn hóa, trong đó có tổ hợp các nhà thờ như Spaso-Prilutskii, Kirillo-Belozerskii và các nhà thờ khác. Nổi tiếng nhất là Tu viện Pherapontov nhờ có các tổ hợp bích họa được hoàn thành vào năm 1502 bởi họa sĩ Nga thời Trung cổ là Dionisii, đã được đưa vào danh dách di sản thế giới của UNESCO.

Vologda còn nổi tiếng với sự phong phú của các công trình kiến trúc gỗ còn được giữ gìn tới ngày nay. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, số lượng và sự nguyên vẹn của các hiện vật liên tục suy giảm. Ví dụ, năm 1963 thánh đường Pokrova thờ Đức Mẹ đồng trinh (nghĩa trang Vưtegorskii) gần Vưtagra đã bị cháy. Nhà thờ này là mẫu hình trực tiếp của thánh đường nổi tiếng Preobrazenskii (nghĩa trang Kizskii).

Trong tỉnh này còn phát triển Lữ Hành săn bắn-câu cá, cũng như có các cơ sở tốt để Phát triển Lữ Hành sinh thái.

Tỉnh Vologda, Hành trình nga

Kinh Tế

Theo sản xuất công nghiệp trên đầu người thì tỉnh này chiếm vị trí thứ hai ở Liên bang Nga. Theo tổng số năm 2004 tỉnh này chiếm 17% sản lượng trong nước của các sản phẩm cán, 16% - thép, 11% - phân hóa học, 14,5% - vòng bi, 7% - gỗ kinh tế, 11,4% - vải lanh, 1,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của Liên bang Nga là sản phẩm của các xí nghiệp trong tỉnh (số liệu chính thức của chính quyền tỉnh).

Tỉnh Vologda đã hòa nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới. Doanh số ngại thương năm 2004 đạt $ 3,082 tỷ. Giá trị hàng xuất khẩu đạt $ 2,741 tỷ. THeo khối lượng xuất khẩu trên đầu người thì tỉnh này chiếm vị trí thứ 6 trong số tất cả các đơn vị cùng cấp của Liên bang Nga và vị trí thứ 2 trong Vùng liên bang Tây Bắc. Cấu trúc hàng hóa trong xuất khẩu của tỉnh được xác định trên hết là bằng các sản phẩm của các xí nghiệp lớn nhất — các xí nghiệp luyện kim đen, hóa chất, máy móc như ОАО "Severstal", ОАО "nhà máy cán thép Cherepovets", ОАО "Ammophos", ОАО "Azot", ZАО "nhà máy vòng bi Vologda".

Nông nghiệp, giống như ở các tỉnh phi đất đen khác, vẫn là ngành nghề đang gặp khó khăn của kinh tế tỉnh này. Trong giai đoạn 1990—2003 số đầu gia súc trong tỉnh giảm 2,9 lần (trung bình toàn Nga là 2,2 lần). Nông nghiệp tỉnh này chủ yếu là sản xuất sữa, nhưng sản lượng chỉ tăng ở các huyện gần các thành phố đông dân và dễ vận chuyển ở phía nam, nghĩa là gần với thị trường tiêu thụ. Trong 4 huyện trên tổng số 26 (Vologodskii, Cherepovetskii, Griazovétkii và Sheksninskii) diễn ra sản xuất của 55% sản lượng sữa của tỉnh. Trong các lĩnh vực khác của khu vực nông nghiệp thì sự tăng trưởng bền vững chỉ có ở các xí nghiệp nuôi gà lớn, tất cả các xí nghiệp này đều nằm gần Vologda và Cherepovets hoặc là giữa chúng (huyện Sheksninskii). Kết quả là nông nghiệp hàng hóa chỉ tập trung ở một vài nơi gần thành phố, còn trên bình diện chung thì khu vực nông nghiệp của tỉnh đang chịu sự suy thoái, giữ được chỉ là nhờ khai thác gỗ. Tuy thế, tỉnh này vẫn xuất khẩu một lượng đáng kể các sản phẩm hàng hóa nông nghiệp: sữa, thịt gà, thịt gia súc, một lượng đáng kể dầu ăn.

Hiện nay ở tỉnh này vẫn còn giữ được một số ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống như hàng thêu ren, trung tâm lớn nhất về thêu ren ở Nga là xí nghiệp "Snetzinka" (Bông tuyết) ở Vologda; các ngành thủ công hiếm có của Velikii Ustjug là chạm trổ vỏ bạch dương và chạm khắc bạc.

Tỉnh Vologda,tinh vologda

Tỉnh Vologda,tinh vologda
12 1 13 25 bài đánh giá
==HOTLINESHOW==